Saturday, January 16, 2010

THƯ GỞI CÁC BẠN TRẺ VIỆT NAM về Hiểm Họa Trung Quốc - Chu tất Tiến

THƯ GỞI CÁC BẠN TRẺ VIỆT NAM
về Hiểm Họa Trung Quốc




Các bạn thân mến,
Thật ra, hiểm họa Trung Quốc xâm lăng Việt Nam không phải chỉ mới manh nha từ vụ bauxite Tây Nguyên mà đã có từ mấy ngàn năm trước... Năm 207 trước Công Nguyên, Triệu Ðà từ Bắc Phương đã xua quân xâm chiếm Nam Việt, sau khi gả Trọng Thủy cho Mỵ Nương là con của An Dương Vương, vị vua cuối cùng của triều đại độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Sau đó, đến năm 111 trước Công Nguyên, Hán triều Bắc Phương mới chính thức đem quân thôn tính nước Nam ta, và cai trị liên tục 151 năm cho đến năm 40 sau Công Nguyên, một cuộc cách mạng thành công đã nổ ra dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng. 

Cuộc cách mạng này, thật sự, là niềm kiêu hãnh độc đáo của dân Việt, không một quốc gia nào có thề so sánh! Thật thế, vào những năm đó, đa số các nước trên thế giới vẫn sống trong một không khí hoang dã, trừ Ai Cập và Hy Lạp đã có văn minh từ nhiều thế kỷ trước ta, còn Châu Mỹ vẫn còn là một giải đất bao la thiếu dấu chân người.
Vậy mà, nước Việt ta đã có một phụ nữ biết khởi nghĩa chống quân xâm lăng, đặc biệt là dưới thời kỳ đó, vai trò của người phụ nữ trên toàn thế giới chỉ là phụ thuộc vào người đàn ông. Và tại một số nước người phụ nữ còn là nô lệ của phái mạnh cho mãi đến ngàn năm sau. Tuy sự thành công của cuộc khởi nghĩa này không kéo dài, chỉ vỏn vẹn có 3 năm, nhưng tiếng vang của lòng can đảm, sự kiêu hùng của dân Việt vẫn mãi mãi tồn tại.
Ðến năm 225, lại một lần nữa, đất nước lại sản sinh một nữ lưu cưỡi voi xông lên, đánh đuối quân xâm lăng chạy thục mạng về phương Bắc. Vị nữ anh thư đó là bà Triệu Thị Trinh. Khi bà khởi nghĩa, bà mới chỉ đúng 23 tuổi. Điều đáng tự hào những người phụ nữ vĩ đại đó lại không xuất thân từ các gia đình dũng sĩ hoặc vua chúa mà chỉ là những thiếu nữ, phụ nữ bình thường có lòng yêu nước vô biên.

Vì thế, mỗi khi nhớ đến hai cuộc cách mạng này, tôi muốn hãnh diện vỗ ngực, hét to lên trước mặt mọi người ngoại quốc: "Tôi Là Người Việt Nam!" và "Các bạn không có những trang sử oanh liệt như chúng tôi!"

Trở lại vấn đề âm mưu xâm lăng của Bắc Phương, chúng ta có nhiều điều để nói:



Lịch sử thời Cổ:
Liên tục nhiều thế kỷ, những con người tham vọng này không ngừng tiến quân xuống phía Nam. Biết bao nhiêu trận đánh kinh thiên động địa đã diễn ra với lực lượng tinh binh của địch lên tới hàng trăm ngàn. Trận Ngô Quyền đánh tan cả chục ngàn quân Nam Hán vào năm 938 tại trận Bạch Ðằng Giang. Trận Lý Thường Kiệt, vào năm 1075, tiêu diệt cả trăm ngàn quân địch ngay trên đất Bắc, nơi mà ngày nay gọi là Quảng Ðông và Quảng Tây.


Cũng tại Bạch Ðằng Giang, vào thế kỷ 13, Trần Hưng Ðạo đánh tan quân Mông Cổ, đạo quân bách chiến bách thắng đã dẫm nát bao nhiêu thành lũy phương Tây và Á Châu. Sau đó là Lê Lợi, một nông dân khởi nghĩa đã diệt trên dưới 300,000 quân Minh vào thế kỷ 15.

Mãi đến thế kỷ 18, khi Lê Chiêu Thống (mà thiên hạ gán ghép cho là ông Tổ của Lê Khả Phiêu và Lê Duẫn, vì cùng nòi bán nước), đã lạy lục mời quân Tầu sang, thì mấy trăm ngàn quân Bắc Phương mới dám vào chiếm đóng. Khiến Quang Trung Ðại Ðế phải xuất hiện cứu nước. Lần này thật sự là oanh oanh liệt liệt, hàng chục vạn quân Tầu phải bỏ mạng trên đất Nam, từng gò đống chất xương quâ n xâm lăng vẫn còn nằm sâu dưới lòng đất Thành Ðô năm xưa.

Lịch sử cận đại:



Sang thập niên 40-50, trong giai đoạn rối bời khi quân Pháp đổ bộ, quân Nhật rút lui, quân Tầu cũng cố gắng có sự hiện diện ở Việt Nam nhưng chẳng làm được trò trống gì rồi phải cuốn gói trong lời ca chế diễu của dân Việt: "Ðoàn quân Tầu Ô kia, 



                        Sao mà gớm thế! 
                        Gót chân phù lang thang 
                        Trên con đường quê."

Nhưng từ khi cái tư tưởng quái đản Cộng Sản ra đời và được Mao Trạch Ðông biến thành một Tôn giáo mới, một thứ tôn giáo cực đoan, thờ các tà thần là các lãnh đạo Ðảng có súng đạn trong tay, thì Trung Cộng tiếp tục các cuộc xâm lăng và trả thù Việt Nam, một láng giềng nhỏ bé mà dám chống lại thiên triều từ bao ngàn năm nay. Ðau đớn thay, âm mưu xâm lăng và trả thù này lại được chính các người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam hân hoan tiếp tay.

Trong cuộc chiến Nam - Bắc, đảng Cộng Sản miền Bắc, đại diện là Hồ Chí Minh, đã trực tiếp cõng rắn cắn gà nhà, quỵ lụy xin Trung Cộng cung cấp quân đội, cố vấn và viện trợ súng đạn, lương thực để đánh miền Nam.
Dĩ nhiên, việc quân đội và cố vấn Trung Quốc đem theo những bao gạo, những gói lương khô Trung Quốc cho Hồ chí Minh phải được đền ơn đáp nghĩa. Trước mắt, các cố vấn Trung Quốc được đối đãi như thần thánh, bảo gì thì Việt Minh cũng phải nghe, phải treo hình Mao Trạch Ðông cao hơn hình Bác Hồ, phải dâng gái hộ lý cho các Cố Vấn Trung Quốc Vĩ Ðại.
Các bản nhạc hát trong tất cả các cuộc liên hoan đều phải hát theo điệu Tầu, "đời đời nhớ ơn bác Mao", và "son son son, mì son đố mì". Sinh hoạt nam nữ cũng theo lời dậy của Bác Mao, nghĩa là "sinh lý nam nữ cũng như uống một cốc nước", tha hồ chửa đẻ, đã có Ðảng nuôi.
Trong khi bộ đội chỉ ăn theo chế độ Tiểu Táo, nghĩa là chỉ có cơm, rau muống, và mì chính, cán bộ cao cấp của Ðảng được ăn theo Trung Táo, có thêm chút thịt cá. Thì Cố Vấn Vĩ đại được hưởng chể độ Ðặc Táo, nghĩa là có rượu thịt ê hề.
Nhiều bộ đội đói lòi xương, quần đùi, chân đất, đã đau khổ nhìn các Cố Vấn một tay ôm gái, một tay ôm vò rượu, cười nói oang oang. Họ uất ức lắm, nhưng làm sao được, khi súng đạn cũng mang nhãn hiệu Trung Cộng, máy truyền tin cũng có tiếng Tầu, xe vận tải cũng Made in China...
Sự đòi hỏi của Trung Cộng:
Lẽ đương nhiên, cuộc giao dịch Việt Cộng - Trung Cộng không phải chỉ như thế. Trong khi giúp Việt Cộng đánh miền Nam, Trung Cộng luôn tìm các kẽ hở của "chú em láng giềng" mà tìm cách thôn tính miền đất nhỏ bé này.
Khi Mỹ dội bom Bắc Việt, Ðảng Cộng Sản Việt Nam cầu cứu Bắc Kinh. Lập tức Trung Cộng viện cớ phải dựng dàn radar và hỏa tiễn để phòng ngự ở miền  cực Bắc nước Việt, rồi chiếm miền đất này luôn, biến thành căn cứ địa Trung Quốc vĩnh viễn.
Khi quân đội anh hùng miền Nam chiến đấu chống quân Tầu xâm lược Hoàng Sa, tên Cộng Sản bán nước Phạm Văn Ðồng gửi thư cho các đồng chí Quốc Vụ Viện Trung Quốc để hoan hô hành động xâm lăng này. Thì các đồng chí Trung Quốc lập tức trịnh trọng cho vào Văn Khố Trung Uơng, mặc dù văn kiện này chẳng có giá trị hợp pháp gì, ngoài một lời nịnh bợ của một kẻ khốn nạn, bán nước cầu vinh!


Ầm mưu thâm độc:
Cũng trong âm mưu thôn tính nước Việt, Trung Cộng đã lợi dụng tinh thần nô lệ của Ðảng Cộng Sản miền Bắc mà cứ từ từ cho cắm lại các cột mốc biên giới sâu vào trong nội địa Việt Nam. Ðộc địa hơn, chúng cho người đến các bản làng xa xôi, hẻo lánh ở cực Bắc nước ta, hỏi xem ai không có căn cước, hay chưa làm căn cước, thì phát luôn căn cước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa cho họ, cùng với mấy món  quà văn hóa Tầu. Dần dần, các bản địa người Dân Tộc của ta biến thành người Tầu hết!

Thâm độc hơn nữa, chúng đã dùng tiền mua các cán bộ lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam, là những kẻ tham ô vô liêm sỉ để chiếm đất, chiếm làng, chiếm tỉnh của Việt Nam. Việc Trung Cộng cho Nguyễn Tấn Dũng 150 triệu đô la để mua đứt Tây Nguyên và một số vùng miền Bắc, hầu như người dân Việt nào để ý đến chính trị cũng biết.
Thiên hạ bàn luận tỉnh bơ trong các quán trà, là sau khi Dũng sang triều cống Trung Cộng, nhận được tiền và được lời hứa của các đồng chí cố vấn vĩ đại Trung Cộng nên đã khai trừ một loạt 5 vị tướng có tư tưởng Dân Tộc, chống lại Thiên Triều! Đồng thời chia cho đàn em mỗi đứa một ít tiền, nên tất cả đều ngậm miệng như hến. Mặc cho Tầu tung hoành như những Thái Thú thời đại trên đất Việt.
Hầu như cả miền chóp nhọn của miền Bắc Việt biến thành đất của Tầu! Những sân gôn mênh mông, hãng xưởng, nhà hàng dành riêng cho Tầu, không một người Việt nào được bén mảng. Những cơ sở này cũng là đường bảo vệ cho các người dân Việt đói khổ làm Cửu Vạn chở đồ lậu Trung Công kìn kìn sang Việt Nam, không thèm đếm xỉa đến hải quan cũng đã ngậm miệng ăn tiền. Hàng hóa và văn hóa phẩm Trung Cộng vì thế tràn ngập thị trường, giết chết hết hàng nội địa. Hãng xưởng mang chữ Tầu mọc lên như nấm trên mọi miền đất nước.
Vì ra vào không cần Visa, lính Tầu giả dạng công nhân tràn ngập mọi nơi, tha hồ lấy gái Việt, đẻ con mang họ Tầu, biến những vùng quanh hãng xưởng của chúng thành lãnh địa Tầu!
Thợ Tầu mà hãm hiếp gái Việt, thì được mang về Tầu, xử lý nội bộ. Nhưng ngược lại, nếu dân Việt mà đụng chạm đến Tầu, thì được xử lý thích đáng bởi nhà cầm quyền địa phương và ông chủ Tầu. Ðôi khi chủ Tầu treo nghi can tòng teng ngay tại cổng Sở mà không ông công an, chủ tịch phường xã dám can thiệp. Có trường hợp hơn 200 thợ Tầu tràn ra làng chung quanh, dùng hung khí tấn công dân làng, mà công an, bộ đội, chủ tịch, bí thư bỏ chạy có cờ!


Tình hình chung:
Ðó là những chuyện nhỏ địa phương, nếu nhìn tình hình chung toàn quốc còn thấy sự nô lệ, khiếp nhược của Ðảng Cộng Sản Việt Nam trước Tầu Cộng kinh hoàng hơn.
Như các bạn đã biết, nếu có người dân Việt yêu nước nào, thấy Tầu Cộng ngang ngược cướp đất, hành dân, mà lên tiếng phản đối liền bị bắt nhốt. Ngay cả viết vài hàng bầy tỏ lòng yêu nước Việt trên mạng cũng bị tù luôn. Cái gọi là Nhà Nước Bán Nước này muốn tạo sự bình an cho các đồng chí con Trời vĩ đại làm ăn.
Do đó, Tầu Cộng được đặc quyền thông đường cao tốc từ Bắc xuống Nam, xẻ dọc giang sơn làm hai mảnh, rồi cắt ngang Tây Nguyên, đào bâu xit, biến cao nguyên Trung Phần thành mảnh đất riêng của Tầu. Từ đó, theo chiến dịch Tằm ăn Dâu, Tầu Cộng cứ từ từ mà nhai nhỏ đất nước ông cha.
Hải phận cũng mất rồi, cái lưỡi bò mà Trung Cộng đã liếm tới sát bờ biển nước ta!

-Thái độ và âm mưu của Ðảng Cộng Sản Việt:

Vậy, thì nay mai, cả vùng trời, vùng biển, đất cao, bình nguyên sẽ biến thành của Tầu. Rồi dân tộc ta cũng biến dạng nốt, chứng minh nhân dân rồi sẽ có chữ Tầu. Khi chuyện đó xẩy ra, thì các lãnh đạo Ðảng đã "hạ cánh an toàn" ở một nơi nào đó trên thế giới. Tha hồ ăn chơi trác táng, gái đẹp, rượu ngon, với số tài sản khổng lồ từ vài trăm triệu đến vài tỷ đôla, số tiền đã được rửa qua các trung tâm chuyển tiền rải rác khắp năm châu bốn biển.
Người Việt ở nước ngoài cử tàn tàn gửi về Việt Nam mỗi năm 8,9 tỷ đô, không biết rằng số tiền này đâu có về nước, mà được giữ lại ở trương mục nước ngoài cho các lãnh đạo, còn tiền ngân hàng của nhà nước, tiền viện trợ để xóa đói giảm nghèo thì lấy ra chi trả cho bà con. Người Việt cũng không biết rằng các tên lãnh đạo bán nước kia, sẽ dùng tiền mà Việt Kiều để dành hộ cho chúng ở ngoại quốc để mua nhà, mua xưởng, mua dịch vụ ở ngoại quốc bằng chính những đồng tiền mà người hải ngoại ký cóp gửi về quê.
-Vai trò của Quân Ðội Nhân Dân:
Các bạn thân mến,

Ðến đây, các bạn sẽ có thể tự hỏi:
Còn quân đội nhân dân để đâu?

Thưa các bạn, từ 34 năm nay, cái quân đội ấy đã chỉ lo làm tiền, lo tham nhũng, chạy chọt thăng cấp, nên chỉ còn là cái bánh rán, phồng to mà không có ruột. Những người còn có chút lòng yêu nước mà không yêu chủ nghĩa xã hội, thì bị thủ tiêu hoặc bị hạ b ệ gần hết, nên chả còn ai. Chắc các bạn vẫn nhớ tin 13 vị tướng lãnh, từ Tổng Tham Mưu Trưởng trở xuống bị nổ máy bay không? Còn nhớ cái chết của Trần văn Trà, và hai ông tướng họ Chu không?

Những nhà lãnh đạo Ðảng chì còn lo làm "sợi chỉ tham nhũng xuyên suốt" từ trên xuống dưới, nên không ai lo trang bị quân đội. Hiện nay, nếu so sánh thực lực hải quân Cộng Sản Việt Nam với Trung Cộng, thì chỉ là con tép riu bên anh chàng khổng lồ Trung Cộng. 

Ðổi lại với hàng trăm tầu ngầm, có nhiều chiếc mang đầu đạn nguyên tử, hàng ngàn máy bay trinh thám không người lái. Hơn 52 loại vũ khí mới, hàng trăm thiết giáp hạm có hệ thống ra đa và phòng không cực mạnh, có thể chọi lại với Hoa Kỳ
Hải quân của nhà nước ta chỉ có hai tiềm thủy đĩnh của Korean, 6 cái loại Kilo class của Nga. Chiến hạm có 7 chiếc, 2 cái của Nga, 5 chiếc của Liên Xô cũ. Thiết giáp hạm có 12 chiếc cũng của Nga. Tuần dương hạm có 16 chiếc của Liên Xô, 2 chiếc của Nga. Lực lượng tuần duyên có 14 chiếc của Liên Xô, và 12 chiếc đóng tại Việt Nam.
Về tầu đổ bộ, thì có 6 chiếc của Mỹ, 4 chiếc của Hòa Lan, và 12 chiếc của Liên Xô. Hỏa tiễn thì toàn là của Liên Xô, loại cũ xưa P-500, Kh-41, và P-800. Ðại khái thì nếu mà đánh nhau bằng Hải quân bây giờ, thì Cộng Sản Việt Nam chỉ lấy trứng chọi đá. Thôi thà ngậm miệng ăn tiền, sống dai hơn.
Như vậy thì tương lai giải đất chữ S



của chúng ta mất tiêu rồi sao?



-Thái độ của chúng ta, hải ngoại và quê hương:
Thưa các bạn,
Như các bạn đã đọc những dòng chữ về lịch sử chúng ta nhắc nhở ở trên, nếu không có nạn độc tài độc đảng, nếu toàn dân đoàn kết một lòng trong một chế độ Tự Do, Dân Chủ, không có cảnh người bóc lột người, thì cho dù Trung Cộng có to lớn hơn chục lần như thế, chúng ta cũng chẳng ngán sợ!

Dân Việt chúng ta đã MỘT CHỌI MƯỜI từ ngàn năm nay, nhất định sẽ dư sức đánh đuổi bọn xâm lăng chạy nháo nhào ra khỏi đất nước một lần nữa. Hơn nữa, một khi có chính nghĩa, nhất định thế giới sẽ không ngồi yên nhìn bọn xâm lược kia hoành hành bá đạo.

Các bạn nghĩ sao?

Có thể tiếp tay với chúng tôi mà "ÐÁNH LŨ THAM Ô, DIỆT BỌN BÁN NƯỚC"  này để cùng nhau xây dựng Dân Chủ, hầu bảo vệ nền Ðộc Lập, Tự Chủ dân tộc không?
Tổ Quốc Việt Nam đang chờ các bạn.
Xin kính chào.

Chu tất Tiến

Xin nhờ chuyển tiếp bài này sao cho tới tay các bạn trẻ Việt Nam.
Cám ơn nhiều.

Friday, January 15, 2010

Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân - Phạm Tín An Ninh

Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân
Phạm Tín An Ninh



Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư tại Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng gía, nhưng lại rất đẹp vào ngày hè và lãng mạng vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy lòng mình trăn trở.  Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong "Rừng Na-Uy", cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe  những tiếng khóc.  Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng.  Tiếng khóc có mãnh lực quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời. 



http://lnx.web-burning.it/wp-content/plugins/wp-o-matic/cache/85239_447.jpg 



Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới.  Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá xinh.  Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường nữ trung học Huyền Trân, cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo sau tôi những buổi học tan trường.  Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng SVSQ Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh.  Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người.  Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp thời còn ở trường Võ Tánh.  Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc 
tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạng, cũng chẳng có điều gì trắc trở.  Ông xã tôi là lính Biệt Động Quân.  Hậu cứ đóng ở Pleiku.  Ngày về làm đám cưới, đôi giầy saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân.  Đám cưới của chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa trải qua khói lửa Mậu Thân.

Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi tôi phải sống một mình.  Chỉ khi nào tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.

Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng.  Một đứa con trai bụ bẫm.  Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là Cao Nguyên.  Lê Cao Nguyên.
Anh về thăm con khi cháu vừa đầy tháng.  Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha.  Đôi mắt  to, sóng mũi cao, đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một "lỗ tai nhỏ" như ba nó.

Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về với đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime.  Tôi bồng con lên Pleiku.  Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh mỗi ngày trong quân y viện. 
 Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ.  Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với Anh kể từ ngày ấy.  Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc.  Cuối năm 1973, trong một lần pháo kích vào trại gia binh làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên.  Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương.  Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở.  Năm sau khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì.  
Lần này là con gái.  Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và yêu nhau.



Animated Nature - Scenic



Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố "đi dăm phút trở về chốn cũ" ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân.  Pleiku đúng là một thành phố lính.  Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ để chờ chồng trở về sau những cuộc  hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong quân y viện.  Với họ thì đúng là "may mà có anh đời còn dễ thương".  Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa phụ!

Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc.  Một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.

Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã ngồi sẵn trên xe.  
Chúng tôi rời khỏi doanh trại.  Thành phố Pleiku như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi không một tiếng gĩa từ.  Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời u ám.  Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố.  Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại.  Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chủng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy.  Tôi nghe chồng tôi và bạn bè nói là ngoài lực lượng xung kích mở đường, một số đơn vị Biệt Động Quân còn được chỉ định đi sau, ngăn chặn địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di tản!  Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một hành quân triệt thoái.

Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào lúc trời sắp tối.  Vừa dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp nơi.  Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng..  Địch đã bao vây.  Các đơn vị BĐQ chống trả kiên cường, nhưng địch qúa đông, mà bên ta thì vừa quân vừa dân chen chúc nhau hỗn độn.  Trong lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất hạnh.  Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn.  Đoàn xe vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đến gần Phú Túc thì lại bị địch tấn công từ khắp hướng.  Nhiều xe bốc cháy và nhiều người chết hoặc bị thương.  Cả đoàn xe 
không nhúc nhích được.  Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về Củng Sơn.



Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ con.  Tôi dắt theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương.  Chúng tôi lầm lũi trong rừng.  Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn đêm.  Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con sông nhỏ.  Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng một số đồng đội chia nhau canh gác.  Mệt qúa, tôi ngủ vùi một giấc, thức giấc thì trời vừa sáng.  Chúng tôi lại tiếp tục lên đường.  Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng cái võng nilong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp.
  Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương, mình đầy máu.  Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự sống.  Hình như họ không còn mang theo bất cứ thứ gì.  Nhìn nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng.  Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự phát hiện của địch.

Vừa rời đoàn người chừng vài phút thì đạn pháo thi nhau rớt xuống..  Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn.  Trong nhóm chúng tôi cũng đã có một số người đã chết.  Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường sống.  Gia đình tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi không nghe tiếng súng.  Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn dùng để mong cứu được vợ con mình.  Địch quân tràn ngập.  Một số đơn vị tan rã.  Đồng đội kẻ chết người bị thương.  Có thể một số đã bị bắt.  Tôi không thể tưởng tượng được số mệnh bi thảm của những người lính Biệt Động một thời oanh liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức tưởi!  Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ ông tướng tư lệnh Quân Đoàn: "Đạp lên mà đi!"  Trong cả đời binh nghiệp, chắc những người lính không còn nhận được cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa.


Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi.  Thầy trò chưa kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ.  Địch quân phía trước mặt.  Trở lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông vào trận mạc.  Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt.  
Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi tiếp.

Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh.  Cái bóng tối bây giờ thật rợn người.  Tôi hình dung cái bóng của tử thần.  Chúng tôi dừng lại trên một ngọn đồi thấp..  Tôi nghiệp cho những người lính trung thành.  Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ, nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm.  Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ con tôi.  Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được.  Chồng tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây.  Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên 
môi, trên tóc.  Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu thương, nhưng có lẽ anh đã tội nghiệp cho một người con gái đã trót chọn chồng là lính chiến..  Và cũng không ngờ đó là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi.



Animated Nature - Scenic



Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch.  Cũng là lần cuối tôi chứng kiến những người lính Biệt Động can trường.  Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch mà đánh, tiếng thét "Biệt Động Quân Sát" vang dội cả một vùng.  Nghe súng nổ, tôi đoán lực lượng địch đông lắm.  Một anh trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến..  Đã vậy anh còn phải dìu theo một người lính bị thương khác.  Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút ấy.  Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả những 
khi lâm trận.  Không biết chiếc áo giáp có đủ để che chắn hình hài bé nhỏ của con tôi.  Hình ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi đã đọc.

Tiếp tục di chuyển từng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn, chúng tôi lại nghe súng nổ.  Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo chúng tôi nằm rạp xuống.  Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường mòn, chạy về bên hướng rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn.  Khi đến bìa rừng, tôi thấy mấy người lính BĐQ nằm chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng.  Sau này tôi được biết những người lính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc.



 
http://lnx.web-burning.it/wp-content/plugins/wp-o-matic/cache/ecb35_Sun_ray_in_the_woods.jpg



Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nửa thì chúng tôi bị đám khá đông VC chặn lại.  
Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí.  Tất cả chúng tôi bị lùa vào bên bờ suối nhỏ.  Ở đây tôi gặp một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước họng súng sẵn sàng nhả đạn của kẻ thù.  Tôi cố ý tìm xem, nhưng không thấy chồng tôi trong số người bị bắt.  Lòng tôi lo âu vô hạn.  Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im, chỉ còn tiếng quát thoát và tiếng nói rất khó nghe của đám người thắng trận.  Tất cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa).

Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn.  Chị giúp việc rất tốt bụng và trung thành.  Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi.  Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát.  Nhìn đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc.

Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng vừa lọt vào tay giặc. 
 Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa.  Tôi không đủ can đảm để mang tin buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang mất tích.  Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà chăm sóc.  Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này.  Nằm nhà hơn một tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi xin được trở lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên.  Cả nhà tôi và cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo.  Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của 
chồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7.



http://tudovis.com/vis_forums/attachment.php?id=607



Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương người còn vương vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ bị lấp vội bên đường.  Cả một vùng xông mùi tử khí.  Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số.  Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn.  Chúng tôi đến đó, 
trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản mới được cho vào trại.  Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi.  Rất may, tôi gặp được anh đại đội phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn.  Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na.  Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi nào đó.  Tôi sáng lên niềm hy vọng.  Ngay hôm ấy tôi thuê năm người thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm.  Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số mộ vô danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi.  Tôi trở về mang theo niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng.

Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích tôn của ông bà. 
 Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.

Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm đến chân đồi, dưới 
gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng 
niệm anh và cháu Cao Nguyên.  Tôi đã dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyê vào 
thân cây.  Lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ 
gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ 
nằm vương vãi do bom đạn hôm nào, tạo thành những âm thanh não nùng, xé ruột.



  



Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định cư sau chuyến 
vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt.  Thánh 5 năm 1985, cha mẹ 
chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển.  Tôi, 
cháu Thùy Dương, và một đứa em trai của tôi đi cùng với gia đình chồng.  Tôi cũng xin được 
một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đã về quê trên vùng quê Diên Khánh, sau ngày cùng 
tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ.  Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của 
tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.

Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng cháu về lại 
Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn 
sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình..  Chúng tôi đến đây vào 
giữa mùa xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai.

Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành Quốc Lộ 25. 
 Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi.  Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương , 
còn có vợ chồng cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa.  Chúng tôi đến 
Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai.  Tất cả không còn gì dấu vết 
của chiến tranh..  Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng dấp 
của thời kỳ đổi mới.  Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi 
nhà sàn "cải biên" thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng 
nghèo nàn mang tên "thị xã".  Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây 
mù, lòng tôi chùng xuống.  Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn 
vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương.  Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự 
chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng gắn huy chương lên 
ngực áo khi ban nhạc trổi khúc quân hành.  Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.






Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường đến tháp Yang Mun 
và tháp Drang Lai.  Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh 
thiêng ghê lắm.  Tôi khấn vái và xin xâm.  Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xâm tôi bốc trúng lại là 
bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:

Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây
Rõ ràng hoa rụng hương bay
Kiếp sau hoạ thấy kiếp này hẳn thôi.

Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng bái, mê tín dị đoan, 
bây giờ là một business.  Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều.  Nghĩ như 
vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường hợp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô 
hạn.  Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa 
đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia cầm với gía rất rẻ.  Tôi cũng muốn mua mấy 
con gà, để cúng chồng tôi.  Khi còn sống anh thích ăn gà luộc.  Bà còn cho biết thêm dân 
chúng ở vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M'dhur.  
Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới 20 cây số.

Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã nghe tiếng người réo 
gọi nhau.  Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói gì.  Chợ phiên nhóm rất sớm.

Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà trọ.  Tôi có cảm 
giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ phiên của người sắc tộc.  Đã vậy vợ 
chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ.  Khi đang cố giải thích về nguồn 
gốc người Thượng, chúng tôi đến một quày gà.  Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong 
những trong mấy cái lồng đan bằng tre.  Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người 
chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng.  Người chủ là anh đàn ông người Thượng vừa đen 
vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi...Khi Anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật 
mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái.  Vết sẹo có hình dáng đầu một con cọp.  Tôi nhớ 
tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi, bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh 
ở Biển Hồ.  Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình 
ảnh đầu một con cọp.  Biểu tượng binh chủng BĐQ mà chồng tôi luôn mang trên vai áo.



  



Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta.  Cũng hai con 
mắt khá to, cũng cái sống mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc mầu nâu sậm như 
mầu đất đỏ Pleiku.  Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày trước.  Anh người Thượng 
ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại.  Nhưng tôi chợt nhớ ra trên vành tai của Cao 
Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba của nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người 
thượng.  Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên hai vành tai..  Bất giác, tôi ôm chầm 
lấy anh và nước mắt trào ra.  Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra và nói một tràng tiếng 
Thượng.  Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì.  Nghĩ tới 
chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi báo cháu Thùy Dương đi 
gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước.  
Tôi kéo chị ra xa và nói vào tai chị:

-  Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?

Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình:

-  Thằng Nguyên?  Chả lẽ là thằng cu Nguyên?

Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:

-  Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?

Anh người Thượng lắc đầu.

-  Tao là thằng Ksor Tlang.

Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và và đưa cho anh một nắm tiền.  Sau khi đếm xong anh 
trả lại cho tôi hơn một nửa, rồi buột miệng:

-  Mày bắt cái con gà nhiều tiền qúa!

Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi chạy vào phòng trọ tìm
 bà chủ nhà.  Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người có tai mắt ờ đây, 
nhưng là một người tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an.  Chưa đầy ba phút hai gã công an 
chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ.  Chưa kịp nói gì, bà 
chủ kéo tay hai gã công an ra chợ.  Vừa đi bà vừa giải thích.  Đến nơi, gã công an nói một 
tràng tiếng Thượng.  Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại.  Cuối cùng hai 
người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại.  Chúng tôi đi theo phía sau trở về 
phòng trọ.



Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại các điều trao đổi giữa 
tôi và anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông tích của anh ta.  Tôọ hai nhét vào tay 
bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.

-  Em có cha mẹ không?  Tên ông bà là gì?
-  Tôi có cha mẹ.  Cha tôi tên Ksor H'lum, mẹ tôi tên H'Nu
-  Có anh em không?
-  Không.
-  Anh có nhớ ngày sinh không?
-  Không.  
(Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ đi tìm khai sinh sau)
-  Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không?
-  Không!  Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.
-  Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?
(Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)
-  Không!  Chắc là bị cành cây đâm trúng.

Tôi thở ra thất vọng.  Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi:

-  Cha mẹ anh đang ở đâu?
-  Buôn Ban Ma Dek.
(Gã công an nhìn tôi, bảo buôn Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)
-  Anh ở chung với cha mẹ anh?
-  Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.
-  Đã có vợ con rồi à!  Tôi buột miệng.

Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban Ma Dek.  Sau khi 
hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu.  Nhưng bảo chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về 
buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được.  Bà chủ nhà trọ gọi dùm 
chúng tôi bảy cái xe ôm.



animated gifs



Cha mẹ của anh bán gà đã khá gìa, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được 
tiếng Việt.  Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của lão công an người Thượng.  Vợ và hai 
con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn.

Ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà.  Nhưng thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và 
nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự thực.



-  Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá 
to trước nhà để tránh đạn.  Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng 
lắm, nhưng cố lết vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé.  
Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.
-  Rồi xác của người lính đó ở đâu?  Tôi hỏi.

Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:

-  Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.

Chúng tôi theo sau hai người công an dìu ông gìa đi về phía khu rừng..

Tôi khóc ngất khi nhìn thấy ngôi mộ lè tè nằm dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ 
nhỏ.  Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng qùy xuống ôm vai tôi mà khóc.  Tôi ngước lên dáo 
dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi.  Nó đang 
đứng bất động, hai tay đang nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa.  Tôi chạy lại ôm 
hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.

Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông gìa mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà 
trọ với tôi.  Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch..  Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương 
và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksot Tlang 
và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang 
Na Uy.  Cả hai ông bà gìa, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp cho 
ông bà sống gần Ksor Tlang.  Nhưng cả Ksor Tlang và ông gìa một mực chối từ, bảo là họ 
không thể nào bỏ bản mà đi.  Núi rừng mãi mãi là nhà của họ.  Họ không thể nào sống xa 
rừng cũng như loài cá không thể nào sống mà không có nước.



http://img526.imageshack.us/img526/5282/nhngheo1on2.jpg



Dự trù lên đây ba ngày.  Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi.  Ban đầu tôi tính xin 
phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng ở 
nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý.  Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh 
đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng 
và chắc không biết gì về anh.  Và chắc có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao đồng đội, một 
thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảnh phất quanh đây.  Tôi mướn 
thợ xây lại ngôi mộ..  Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp 
chung với tôi và hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao 
Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất.  Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo.

Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã cưu mang nó.  
Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó đã vận vào cuộc đời của 
nó.  Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ 
của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ 
nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một 
số quần áo mới.  Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la.  
Bằng đúng số tiền mà tôi trả công cho hai gã công an!

Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà sàn mới.  Buổi 
chiều tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy
  Dương ra thắp hương trước mộ ba nó.  Nó qùy bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm 
trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe.  Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình.  Tôi 
nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi.  Tôi sinh ra Cao Nguyên, 
nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày nó mới lên bốn 
tuổi.

Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh Lộ 7 ngày xưa, mang theo trong 
lòng nỗi đau đứt ruột.  Đang giữa mùa xuân nhưng giữa bầu trời nhuộm màu ảm đạm.  Nhìn 
núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa, mà tất 
cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau, trùng điệp.  Tai tôi nghe 
trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió.  Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng 
khóc của cây?

Phạm Tín An Ninh
Phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ 

Monday, January 11, 2010

Cuộc cách mạng khăn tang? - Vương Bình


Cuộc cách mạng khăn tang?
VietCatholic News (10 Jan 2010 08:54)



 Những ngày gần đây, biến cố Đồng Chiêm mà cụ thể là Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam huy động một lực lượng hùng hậu với những trang thiết bị chống khủng bố chỉ để phá bỏ Thánh Giá Chúa Kitô được giáo dân Đồng Chiêm xây trên Núi Thờ – nơi được xem là chốn linh thiêng, nơi an nghỉ ngàn thu của nhi đồng- đang ngày càng nóng theo từng giờ từng phút. Không cần liệt kê về những hãng thông tấn nước ngoài hay các hãng truyền thông tôn giáo đã đang và sẽ còn theo dõi và đăng tải biến cố này trước thái độ điên cuồng của những người cầm quyền cộng sản Việt Nam không còn tính người đã nhẫn tâm không những phá biểu tượng tôn giáo mà còn đánh đàn bà con gái thân mình bầm nát và máu me loang lổ! gần đây, biến cố Đồng Chiêm mà cụ thể là Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam huy động một lực lượng hùng hậu với những trang thiết bị chống khủng bố chỉ để phá bỏ Thánh Giá Chúa Kitô được giáo dân Đồng Chiêm xây trên Núi Thờ – nơi được xem là chốn linh thiêng, nơi an nghỉ ngàn thu của nhi đồng- đang ngày càng nóng theo từng giờ từng phút. Không cần liệt kê về những hãng thông tấn nước ngoài hay các hãng truyền thông tôn giáo đã đang và sẽ còn theo dõi và đăng tải biến cố này trước thái độ điên cuồng của những người cầm quyền cộng sản Việt Nam không còn tính người đã nhẫn tâm không những phá biểu tượng tôn giáo mà còn đánh đàn bà con gái thân mình bầm nát và máu me loang lổ!


Trong quá khứ, ai trong chúng ta đều biết trên thế giới, đứng trước sự thối nát cũng như xem thường người dân của các thể chế đương quyền khi ra sức lộng hành, đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của đất nước,… sẽ dẫn đến hậu quả là người dân thuộc đủ mọi thành phần, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, mầu da, tất cả sẽ nổi dậy trở thành một cuộc cách mạng không cần súng đạn, không cần đổ máu mà chúng ta đã có dịp chứng kiến xảy ra ở các nước Đông Âu với những tên gọi rất “nên thơ” như cách mạng nhung, cách mạng hoa hồng,…


Những vành khăn tang xuất hiện ở Đồng Chiêm với cả ngàn người giáo dân từ những em nhỏ đến những vị bô lão đầu chít khăn tang, treo cờ tang chế để cho thế giới biết rằng chính nơi đây, tà quyền cộng sản Việt Nam đã xúc phạm đến niềm tin linh thánh của họ, đập phá Thánh Giá Chúa Kitô là biểu tượng linh thánh tôn giáo của hai tỷ con người trên kắp địa cầu này. Đây là một sự "phạm thánh" niềm tin tôn giáo công khai và hung bạo nhất của cộng sản Việt Nam mà thiết nghĩ trên thế giới này chưa có thể chế nào hung bạo bằng. Nó vượt qua sự tàn ác của chế độ Taleban khi đánh phá tượng Đức Phật là biểu tượng cao quý của các tín đồ Phật giáo.


Nói đến vành khăn tang là nói đến sự đau thương tột cùng của người thân, của tang quyến về sự mất mát, sự ra đi của người thân yêu. Nhưng ở đây – biến cố Đồng Chiêm, nó không dừng lại trong phạm vi gia đình Thiên Chúa Giáo, của giáo xứ Đồng Chiêm, của Tổng giáo phận Hà Nội hay của toàn thể Giáo hội Công Giáo Việt Nam mà là của toàn thể dân tộc Việt Nam và cũng là của toàn thể những người có cùng một niềm tin vào Thánh Giá Chúa Kitô trên toàn thế giới.


Từ nhiều năm qua, dân chúng Việt Nam từ khắp xóm làng đến thành thị, đâu đâu dân chúng cũng oán than và đau khổ vì nhân quyền của người dân bị chà đạp, nhà cửa ruộng vườn bị chiếm đoạt, người lao động vất vả nhưng không đủ cơm ăn mà còn bị cường quyền lạm dụng công sức cho lợi ích riêng tư của bọn cầm quyền... thế nên nảy sinh không biết bao nhiêu "dân oan" về mọi phương diện. Đang khi đó thì những người cầm quyền chỉ biết vinh thân phì da, cho cho quyền lợi riêng tư của họ. Họ sống trong nhung lụa đang khi xã hội lan tràn không những chỉ tham ô thối nát, xa đoạ, mà dân chúng thì nghèo khổ vô cùng. Tiếng than van đã thấu trời xanh.


Vì vậy không chỉ những giáo dân ở Đồng Chiêm phải mang trên đầu vành khăn tang thương đau và oan ức, nhưng xét chung và hiểu sâu xa hơn thì có thể cả toàn dân Việt Nam nếu cần diễn đạt nỗi đau thương oan ức của mình thì cũng đã chít vành khăn tang trên đầu rồi! Thế biết đâu một ngày không xa nào đó sẽ bùng phát lên một cuộc cách mạng “khăn tang”.


Bởi cuộc cách mạng khăn tang này là cơ hội để người dân Việt Nam gióng lên tiếng nói thống thiết của mình trước một chế độ hại dân bán nước, hèn nhát trước ngoại bang xâm chiếm nhưng lại hống hách bắt nạt người dân. Một chế độ đốn hèn như thế chắc chắn một ngày nào đó toàn dân cũng sẽ lên tiếng loại trừ.


Cuộc cách mạng khăn tang này là cuộc cách mạng của toàn thể dân tộc Việt Nam. Bởi mầu trắng khăn tang là mầu tang thương của toàn thể dân tộc chúng ta chứ không phải của riêng tầng lớp giai cấp hay hệ phái tôn giáo nào.


Đến một lúc nào đó, mỗi con dân Việt Nam thuộc mọi tôn giáo, những "dân oan" thuộc mọi lãnh vực, cũng sẽ chít trên đầu vành khăn tang để phản đối tà quyền cộng sản Việt Nam ra tay tàn phá biểu tượng tôn giáo – một biểu tượng mà bất luận là ai không phân biệt mầu da giai cấp, đảng phái, tôn giáo đều tôn trọng; chít lên đầu vành khăn tang là chúng ta chia sẻ với nổi đau mất mát của đồng bào mình cách thiết thực nhất; chít lên đầu vành khăn tang ngay từ bây giờ là chúng ta nói lên tiếng nói hiệp thông của chúng ta với những anh em có cùng hay không cùng tôn giáo bị tà quyền cộng sản Việt Nam bách hại; chít lên đầu chúng ta vành tang trắng để tang cho một dân tộc bị cộng sản chà đạp và đàn áp cách thậm tệ; chít lên đầu chúng ta vành tang trắng để bảo vệ chủ quyền của tổ quốc đang bị bè lũ tư bản đỏ bán đứng cho ngoại xâm.


Và khi mỗi người Việt Nam bị oan ức chít lên đầu vành tang trắng để xem Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam sẽ dùng thủ đoạn gì để đàn áp, bởi đơn giản một điều, khi thấy trên đầu của ai đang đội vành tang trắng thì dù là một kẻ đầu trộm đuôi cướp, đầu đường xó chợ, hạng lưu manh cũng phải kiêng nể. Còn đối với người cộng sản vô thần và khát máu, hãy chờ xem họ có còn lương tri hay không khi đứng trước sự phản kháng của toàn thể dân tộc trước phong trào cách mạng khăn tang này.


Mỗi người con dân đất Việt, ý thức được sự bạt nhược, lưu manh của những người cầm quyền cộng sản Việt Nam, hãy cùng nhau đoàn kết, nắm tay nhau, cùng nhau để tang cho dân tộc, cho đồng bào bị cộng sản áp bức, cho tổ quốc lâm nguy, cho bờ cõi của tổ tiên để lại đang bị cộng sản Việt Nam bán cho ngoại xâm. Ước gì cuộc cách mạng khăn tang sẽ trở thành cuộc cách mạng đánh động lương tâm thế giới, giúp cho người dân Việt Nam sớm có được sự công lý, tự do, nhân quyền và dân chủ đích thực chứ không phải là bánh vẽ do cộng sản VN vẽ ra từ mấy chục năm nay.
Vương Bình